Ðêm Long diên hương

tothesea

Năm đó Tỉnh lấy vợ. Hắn nhờ thầy Sáu Ðậu có sách Thọ Mai, so đôi tuổi, chọn ngày. Thầy Sáu hỏi tuổi tác hai đứa xong tính toán một hồi rồi nói, chờ đến xuân cưới nhau mới tốt. Hắn đem chuyện đó về thuyền kể lại cho bọn trai bạn nghe (Trai bạn là người làm thuê trong nghề đi biển). Mấy đứa đã có vợ xúi nó:

– Chờ tới mùa xuân sang năm lâu quá, đợi sao nổi?

Có đứa bảo:

– Cưới vợ phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày có kẻ gièm pha.

Mấy thằng lớn tuổi bày đặt:

– Qua xuân cưới vợ xong, gặp mùa cá phải ra khơi, chán chết. Chi bằng bây giờ là tháng mười, mầy cưới con Ðào, gặp mùa biển động, không công việc gì, ra giêng mới tới mùa cá, mầy được ngủ với con vợ mới nguyên một mùa đông mưa dầm gió bấc, sướng biết bao nhiêu!

Tỉnh nghe có lý, hắn nói dối Ðào, thầy bảo cưới liền mới tốt. Hắn đi vay tiền, nhờ người đến bỏ trầu cau, xin ngày, làm lễ hỏi lễ cưới ngay trong một buổi sáng.

Vợ chồng mới vui thú với nhau chưa được bao năm ngày thì hết tiền. Tiền vay làm đám cưới đám hỏi, chủ nợ đòi gấp quá, sẵn có ghe nhà Tám Tạo đi làm ăn trong vùng biển Bình Tuy, Long Hải, Vũng Tàu… đang thiếu trai bạn, hắn xin đi theo để kiếm tiền và cũng để trốn nợ. Giã cào là ghe chuyên làm trong mùa biển động. Mùa này các nghề khác như lưới cản, mành chong, mành rút, câu ngừ, câu mực… thuyền nhỏ không dám đi xa, chỉ có giã cào, ghe lớn mới dám ra khơi trong mùa biển động. Mùa này chợ búa khan hiếm, tôm cá đánh về bán được giá. Giã cào gồm hai chiếc ghe lớn. ít nhất mỗi chiếc cũng gắn máy ba lốc (45 mã lực) chạy song song, ở giữa giăng tấm lưới lớn, mắt lưới nhỏ dần, cuối cùng là cái bọc đựng cá. Hai chiếc thuyền cứ chạy ngang dọc suốt ngày đêm trong mùa biển động. Cá lớn cá nhỏ đều bị quét vào trong lưới. Thỉnh thoảng người ta dừng lại, dùng tời kéo lưới lên, trút cá vào hầm nước đá.

Làm trai bạn cho ghe giã cào khổ lắm, phải chịu xa nhà lâu ngày trong mùa đông giá rét sóng to, gió lớn. Trai bạn giã cào thường phải là thanh niên độc thân, khỏe mạnh mới đủ sức theo nghề. Mấy lão già và bọn mới cưới vợ không ai chịu đi. Ðược cái theo ghe giã cào, mãn mùa chia tiền nhiều hơn nghề khác.

Chiều hôm ấy, Tỉnh leo vào thúng chai chèo ra ghe giã cào đậu nơi vùng nước sâu. Hắn trèo lên ghe lớn, quay lại nhìn thấy con Ðào mặc áo hồng, đứng trên bãi cát trắng, đàng sau là dãy chòi tranh có cái quan tài sơn đỏ dài hơn mười thước đặt trên hàng ngựa gỗ đựng xương cá ông voi. Trong ánh chiều nhàn nhạt, mầu áo đỏ của con Ðào giống như ngọn lửa nhỏ thắp lên giữa ngôi miếu dựng trên bãi biển. Phía sau là bóng núi Cô Tiên thấy mỏng như tấm giấy mầu xanh dán trên nền trời. Hình ảnh đó cứ quẩn quanh trong đầu hắn suốt ba tháng trời sống trên sóng nước. Giờ đây, trước lúc đi xa, hắn thấy thương quá, muốn phóng xuống nước lội trở lại vào bờ. Lão Tạo chủ ghe kêu lớn:

– Tỉnh! Mầy với thằng Khải kéo thúng chai lên. Tao coi được giờ, đốt phong pháo rồi lên đường. Mới đầu tháng mười mà trời đất âm u, gió săn quá, chạy từ đây vô trỏng ít nhất cũng mất phuy dầu. Sáng mốt may ra mới tới.

Khải nghe chủ ghe kêu chạy lại thấy Tỉnh còn đứng nơi mũi ghe nhìn lên bờ, hắn ngó vô bờ thấy con Ðào mặc áo hồng tay cầm nón phất. Hắn nói:

– Giúp tao một tay kéo cái thúng chai lên, còn đứng xớ rớ chi đó? Thấy bộ dạng mầy tao biết còn tiếc của đời lắm chưa chịu đi. Bộ thấy sóng to gió lớn lạnh lẽo muốn bỏ về rúc vô bếp ngồi coi con vợ nấu cơm sao?

Tỉnh vô khoang cất bao quần áo, trở ra làm việc, nhìn lên bờ còn thấy cái áo đỏ đứng trước miếu thờ cá ông voi.

Ðúng như nhà Tạo nói, sáng mốt thuyền mới tới vùng biển Bình Tuy. Suốt mấy ngày qua biển động dữ dội. Tỉnh tuy làm trai bạn đã lâu năm, quen sóng gió nhưng nửa năm qua ở bờ, lại mới cưới vợ, lần này gặp sóng to gió lớn vật cho, chịu không thấu, mửa tới mật xanh mật vàng. Lão Tạo thấy thương tình đưa cho chai dầu khuynh diệp bác sĩ Tín, nói:

– Hồi mới cưới bà Tạo tao cũng ở trên cạn nửa năm. ở bờ vợ quần, xuống biển sóng quần, mấy ngày nhừ tử. Tụi bay con trai mới lớn chưa biết nên coi thường đàn bà con gái. Thấy nó ốm nhom tưởng yếu ai dè mạnh hết chỗ chê. Bọn họ thường mắc cỡ không nói nhưng bao nhiêu cũng được, không mệt mỏi hư hao gì cả. Ông bà ta nói: ‘Anh hùng khí đoản, nhi nữ trường tình’. Cái thứ đàn ông ngó hùng hổ vậy chớ chẳng ra làm sao. Bây giờ lũ bay thấy đó, bả vẫn ốm nhom như con mắm nhưng quanh năm suốt tháng chẳng tốn viên thuốc. Còn tao tướng tá như trâu, tháng nào cũng tốn tiền cho bác sĩ.

Thằng Khải nghe lão Tạo chê vợ ốm, chọc:

– Thím Tám nhỏ con nhưng ngon độ phải không?

Tám Tạo biết thằng này sắp châm chọc, lão ừ hữ cho qua chuyện. Thằng Khải tiếp, còn cái chị Dần trắng trẻo thừa thịt, ngồi xích lô không lọt, bán bánh canh ở đầu xóm Bóng, mỗi lần đi biển về chú Tám chạy lại đó liền, có ngon độ hay không? Nhà Tạo gắt: ‘Thôi kéo lưới lên, đừng nói chuyện tào lao nữa. Thằng Tỉnh còn say sóng để cho nó nghỉ’. Lão nghĩ thương bọn đàn ông con trai ở ngoài biển lâu ngày thiếu thốn đủ thứ, nhất là thiếu đàn bà, không cho nói chuyện đó chúng nổi điên lên mất.

Khi đã trở lại quen với biển giã rồi Tỉnh cứ thấy buồn chán. Hắn mong cho tới tháng chạp trở về. Thường gần Tết chủ ghe về ăn Tết nhân đó kéo ghe lên bờ đốt hàu, làm lại vỏ ghe, sửa chữa những chỗ hư hỏng mà chiếc thuyền gỗ phải chịu trong suốt một mùa biển động. Hắn tính xong chuyến này kiếm nghề khác, không theo cái thứ giã cào đi biển dài ngày nữa, nhớ vợ, nhớ đất quá. Ban đêm cứ chợp mắt là thấy con Ðào đứng trước miếu thờ ông Nam Hải.

Có một buổi chiều, Tỉnh đang đứng trong ca-bin cầm bánh lái, con tàu tiến từ tây sang đông. Lão Tạo ở trần mặc quần dài ngồi chò hõ trên cái sỏ (Khúc gỗ nhô lên tại mũi con tàu) đứng lên kêu to:

– Tỉnh! Coi giùm tao cuốn lịch treo trong ca-bin thử bữa này mấy âm lịch?

Tỉnh mở cửa nói vọng ra:

– Mười chín tháng mười ta.

Lão Tạo kêu lớn:

– Thôi chết cha rồi! – Và lão hớt hả kêu: – Ngà, Nên, Lợi, Khải, Sáu, Thành! Kéo lưới lên gấp đi! Tỉnh, tắt máy thả neo…blue_whale

Tỉnh tắt máy chạy ra. Lão Tạo chỉ tay về hướng mặt trời lặn. Biển hôm nay đầy sự lạ. Trời đang sáng trắng chuyển sang mầu trứng sáo, rồi đột nhiên ngả sang mầu đậm hơn làm nên một hoàng hôn lá mạ trên trời dưới biển. Vòm trời bị kéo xuống thấp đến nỗi có vẻ như đứng trên thuyền đưa tay chống lên được, còn mặt biển thì cong lại. Nước biển như sôi lên đầy bụi hơi nước mù mù như sương. Tỉnh hỏi:

– Cái chi đó chú Tám?

Tám Tạo vẫn còn đăm đăm nhìn. Tỉnh hỏi lại lần nữa:

– Cái chi mà chú biểu tắt máy, bỏ neo, kéo lưới?

Lão Tạo:

– Mầy không thấy cái gì trước mặt đó sao?

Tỉnh:

– Tui chưa thấy cái chi cả?

Lão Tạo:

– ‘Ông hội’!

Rồi lão giải thích, hàng năm cứ vào tiết Ðại Tuyết mười chín tháng mười âm lịch, cá ông biển bắc bơi về biển nam trốn lạnh, gặp gỡ vầy duyên với nhau, cả bầy mấy mươi con, phun sương làm mờ cả trời biển. Người làm nghề biển có duyên lắm mới gặp kỳ ‘ông hội’. Tao biểu mày tắt máy là sợ chân vịt máy tàu chặt nhằm lưng ông. Tao sai tụi kia kéo lưới là sợ ông vướng lưới. Làm tổn hại đến ông, phải tội chết.

Ngày trước bọn giăng lưới thấy ông bơi vô trong tìm cá phải vội vàng lặn xuống mở hai cửa Bấc (phía bắc) cửa Nồm (phía nam) đốt vàng mã vái cho ông ra. Tụi bay có thấy cái miếu thờ ông Nam Hải chỗ Bãi Dương đó không. Ông được vua phong chức ‘Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lâm Thượng Ðẳng Thần’ linh hiển vô cùng. Trước miếu có dãy nhà tranh dài như cái thùng lều nước mắm, trong đặt quan tài hài cốt của ngài gọi là ngọc cốt, sắp theo chiều dài, xương đầu ông to như cái bồ dài hơn ba thước, mấy trăm đốt xương sống nằm giữa, xương sườn to và dài bằng đòn gánh gác hai bên, sau là cái đuôi kiểu rẻ quạt. Người ta đóng cái thùng gỗ sơn đỏ lòm dài hơn hai thục thước, đặt nằm trên hàng ghế nhựa. Năm đó ông lụy, tấp vào Bãi Dương. Thằng Ngạc con Tư Yến là người thấy đầu tiên, chít khăn tang làm trưởng nam, lo liệu việc tang. Thời trước không có cách gì đem ông lên cát. Người ta dìu ông vào sát bờ. Chặt tre cắm chung quanh giăng lưới làm thành cái hàng rào bảo vệ cho ông tránh mấy loài cá dữ đến quấy phá rúc rỉa xương thịt ông. Hai mươi ngày sau sóng dồi gió dập thịt rữa ra hết chỉ còn lại bộ xương. Người ta đem xương lên bờ, lấy rượu trắng rửa kỹ, xương cốt ông từ mầu trắng chuyển sang mầu vàng ngà, sau ửng mầu hồng, cứng lắm nhưng vẫn nhẹ, bỏ trong nước nổi lềnh bềnh, để cả trăm năm không mối mọt.

Hai chiếc tàu lớn dừng lại. Giã cào kéo lên, bọn trai bạn đứng trên nóc ca-bin từ xa nhìn tới một vùng biển mù mù hơi nước. Chừng nửa giờ sau yên tĩnh trở lại, gió chiều thổi tan sương. Bọn trai bạn giục:

– Ông bà đi hết cả rồi, tới đó coi đi chú Tám.

Thằng Tỉnh mở máy, hai con thuyền lớn từ từ đi vào vùng biển mới đây ‘ông hội’. Lúc này đã nhá nhem tối, trong làn nước loang loáng như đổ dầu, một mùi thơm kỳ lạ, gần mà xa, thoang thoảng mà sắc đậm lan tràn trong một vùng biển rộng. Mùi hương lạ lắm không thể dùng lời diễn tả hay tìm cách so sánh nhưng đã ngửi một lần suốt đời không quên được, hễ gặp lại nó là nhớ biển. Bọn trai bạn hỏi:

– Mùi gì thơm quá chú Tám?

Lão Tạo:

– Ông bà mình nói đó là mùi long diên hương. Mấy ông thầy thuốc bắc nói chất này quý lắm, chữa được nhiều thứ bệnh.

Thằng Tỉnh thấy nổi trên mặt biển một thứ giống như bọt xà phòng mầu ngà. Hắn lấy cây vợt vớt lên, một lúc sau chất bọt đó đông cứng lại, cho vô túi ni-lông, tính đem về đưa cho con Ðào bỏ trong tủ quần áo cho thơm. Ðẻ con ra bỏ trong gối đứa nhỏ cho khỏi bệnh chốc đầu, lại thơm tho, ai bồng cũng muốn hôn hít.

Mới đó mà đã tới ngày hai mươi ba tháng chạp đưa ông Táo về trời. Cặp giã cào với tám con người trên đó như hai con ngựa xé làn gió rét sắc như dao chạy về vùng biển bắc sau chuyến viễn du lênh đênh gần một trăm ngày. Gần Tết, biển chỉ còn những cơn động nhẹ, sóng yên, ngồi trên thuyền thấy biển chao nghiêng như ngồi võng. Hai con thuyền chạy một ngày một đêm với nửa ngày thì đến Hòn Rùa. Lúc đó đã xế chiều. Từ Hòn Rùa nhìn theo hướng mặt trời lặn chưa thấy gì cả. Ðất liền vẫn còn xa xôi mơ hồ lắm. Trời mây nước đất hòa quyện với nhau thành một vệt mờ khi trồi lên khi hụp xuống ở đàng sau con sóng. Hai chiếc thuyền đâm thẳng hướng tây và chạy thêm một giờ nữa mới phân biệt được đất, nước, trời, có mầu sắc hơi khác nhau, trông như bánh da lợn. Thuyền vào gần hơn nữa mới thấy dãy núi hình răng cưa có một đỉnh nhấp nhô cao hơn cả, chọc thủng mây. Tỉnh sung sướng quá reo lên:

– Núi Cô Tiên!

Hắn vui mừng phát điên, quay lại tính chia vui với người nào đó, nhưng vào giờ ấy thằng Khải mắc dọn dẹp, mấy đứa nữa đều chộn rộn chuẩn bị lên bờ. Ðàng sau hắn chỉ có lão Tạo. Hắn ôm đại lão già bộ mặt đỏ lòm, sần sùi, râu ria lởm chởm, hôi mùi rượu trắng, mùi khét thuốc rê, mà siết. Lão già cũng đang vui cười ha hả và mắng:

– Ðồ quỉ! Thấy đất mà nó phát điên làm như thấy con Ðào.

Tỉnh lao vào trong khoang lấy bao áo quần rách. Mấy bộ đồ này nhiều tháng qua, khi nào có mưa mới được giặt nước ngọt, còn không thì giặt bằng nước biển, bỏ bao nhiêu xà bông cũng không có bọt, giặt rồi phơi hai ba ngày không chịu khô, có khô cũng cứng như mo. Hắn thò xuống đáy bao mò tìm. Mấy ngón tay chạm phải xấp bạc, hắn rất yên tâm. Xa nhà, chịu gian khổ, sóng gió rét mướt cũng chỉ vì mấy tờ giấy này. Ðáy bao còn có cái túi ni-lông đựng long diên hương. Chuẩn bị trong nửa giờ thì tất cả lên bờ. Chiếc ghe neo nơi vùng nước sâu. Tám người hối hả xuống hai cái thúng chai chèo vào. Lần đầu tiên sau nhiều tháng chân họ chạm đất, sung sướng lạ lẫm làm sao! Không hẹn mà tất cả đều chạy trên cát. Cả tám con người râu tóc sau nhiều ngày không cắt rất dài, áo quần xơ xác, giống bọn tù khổ sai. Lên đến đường cái rồi, không muốn mà đôi chân vẫn cứ chạy. Người đi đường hoảng hồn tưởng đã xảy ra chuyện gì.

Con Ðào đang lui hui nấu cơm trong bếp. Chiều nay hết củi, nó thổi mấy cộng dừa chẻ ra phơi nhưng chưa khô, khói tỏa mù mịt. Nó chợt thấy bóng người chập chờn trong khói lẻn vào bếp, vùng dậy hét lên:

– Linh thiệt! Mới hồi hôm nằm thấy anh về!

Tỉnh hỏi:

– Thiệt hả?

Ðào:

– Thiệt, nói dại, trong mơ thấy mình mẩy anh ướt mèm, da thịt trắng bệt như người chết trôi! Hỏi thì nói bão lớn lắm thuyền đắm được ông Nam Hải cứu. Hồi xế trưa em đi mua nhang đèn ra miếu thờ khấn rồi.

Tỉnh chờ đợi cái giây phút gặp gỡ này đã bao nhiêu ngày, vội vàng bước tới. Hắn thấy trong xi-nê tây đầm mỗi khi đi xa về gặp nhau ôm chầm hôn hít rất hay, rất đẹp. Hắn thích kiểu gặp gỡ và cách tỏ tình này. Mấy tháng ở biển hắn ao ước dịp này xiết bao, nhất là mấy ngày trước khi quay về. Hắn tính lúc trở về cũng lao tới ôm con Ðào làm như kiểu xi – nê, đè nó ra mà hôn hít điên loạn. Và giờ đây hắn đang bước tới. Con Ðào ngập ngừng, thẹn thùng, thấy chồng đưa cả hai tay ra nhưng nó chẳng biết phải làm gì cả. Ðào đứng yên, tay chân ngượng nghịu dư thừa. Tỉnh ôm vợ, hắn thấy giống như ôm vào lòng một con ghẹ rất nhiều càng và que, không êm ái dễ chịu chút nào. Tỉnh nghĩ, hình như bọn tây đầm chúng đã tập tành từ nhỏ mới dễ dàng và gọn gàng như thế.

Ðào lấy bao áo quần, nó móc từ dưới đáy lên xấp tiền. Tỉnh nói, trả nợ, còn bao nhiêu để dành đi chợ. Ðào móc túi ni-lông nhỏ đựng chất gì giống như sáp ong vụn, nói thứ gì thơm quá. Tỉnh nói lượm được tại vùng biển ‘ông hội’. Ðào không hỏi gì thêm, nhét dưới gối. Bữa ăn chiều thiếu cơm, Ðào chỉ nấu có hơn nửa lon gạo. Nó chạy ra chợ mua thêm ký bún với cái đầu cá thu về nấu ngọt, cho nhiều nước để chồng chan bún. Tỉnh nói, ở dưới ghe cá mắm thiếu chi, thỉnh thoảng cũng có bún ăn, nhưng chưa bao giờ ngon bằng bữa này. Hắn phịa ra cho vợ vui lòng. Chiều hôm nay lòng hắn rộn ràng như lửa, không thấy đói mà ăn cũng chẳng thấy ngon. Tối lại hai vợ chồng lên giường. Ðào sợ muỗi chui vô nhét mùng rất kỹ. Nó nằm yên, nhìn lên trần nhà một lúc, thấy trong nhà dù chỉ có ngọn đèn dầu hỏa nhỏ vẫn còn rất sáng, sợ khó ngủ. Ðào vén mùng chui ra. Tỉnh hỏi:

– Ði đâu?

– Thổi tắt đèn.

Tỉnh nói:

– Ðừng tắt, để đèn sáng đi.

Ðào nói giọng ngượng ngùng:

– Ðể đèn sáng mắc cỡ chết!

Tỉnh cười:

– Không phải đâu, chưa, để khuya cái đã…

Ðào nhìn chồng ái ngại:

– Mới về còn mệt hả?

Tỉnh:

– Không phải…

Ðào:

– Ðể đèn sáng làm chi? Khó ngủ lắm.

Ðến đây Tỉnh mới nói ra cái ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình:

– Ðể đèn sáng cho anh coi cái bụng bầu của em một chút!

Ðào nói:

– Bụng bầu xấu lắm, đâu bằng bụng con gái, coi làm chi?

Tỉnh thú thật:

– Hồi xuống ghe chưa biết em có bầu, mình là trai gái mới lớn có kinh nghiệm chi mô. Không biết vợ chồng sống với nhau thời gian ngắn, làm cách đó có được hay không? Hai tháng sau gặp thằng Ðộ đi trai bạn cho ghe nhà Khôi cũng vô trong đó. Anh hỏi, nó nói thấy em thường ngồi đón cá ở đốc chùa Hạ Long. Anh hỏi em có bầu hay chưa, nó nói: ‘Vợ mày tao làm sao biết được?’. Anh nói, thấy cái bụng to thì biết. Nó nói một thôi một hồi về kiểu bụng đàn bà chửa, thế nào là chửa bụng trên bụng dưới chửa khô chửa nước… Hắn nói có người gần đẻ chưa thấy bụng. Hắn hỏi cưới nhau lâu mau? Anh nói hơn bốn tháng, hắn nói, con so bốn tháng, người ngoài không biết đâu. Anh không hỏi nữa, tin chắc em có bầu. Ðào hỏi:

– Làm sao mà biết?

– Biết chớ, xem họ hàng hai bên thì biết. Mấy người chị của em đẻ như gà, mẹ em cũng mười một người con, còn bên anh giá chót cũng một cặp. Không lẽ mình lại chậm con?

Ðào đang nằm nghiêng quay người lại với chồng. Tỉnh bảo, em nằm ngửa lại đi nào. Ðào lăn vào sát hơn, nằm ngửa. Tỉnh không nằm nữa mà lồm cồm bò dậy ngồi một bên. Hắn đưa tay lần mở từng hạt nút trên cái áo phin may bằng thứ hàng chi không biết thấy rất nhám. Hắn không hỏi nhưng con Ðào vẫn nói, mút – xơ – lin cát đó. Rồi con Ðào hỏi rất tự nhiên: ‘Có kéo quần xuống không?’. Không đợi chồng giục, nó kéo cái quần cũng may bằng thứ hàng mỏng và nhám như cát xuống tới đùi thì dừng lại. Dưới ánh sáng ngọn đèn dầu hỏa từ ngoài chiếu vào Tỉnh thấy một cái bụng bầu lum lúp, chửa con so bốn tháng, làn da mỏng trắng mờ. Ðào nói nho nhỏ:

– Coi đi!

Tỉnh nhìn một lúc rồi đặt bàn tay chai sạn, da dày như mo cau, có mấy chỗ nổi cục chai cứng như gỗ. Ðó là đôi bàn tay làm lụng cực nhọc trong mấy tháng qua, suốt ngày suốt đêm kéo lưới kéo neo là những bó sợi ni-lông to bằng cổ tay rất chắc có thể chống chọi lại với sóng lớn để neo hai con thuyền. Ðào thấy bàn tay chồng chai như da trâu, biết lâu nay anh ta làm lụng cực nhọc, thương đến ứa nước mắt. Tỉnh thấy làn da trên bụng vợ ấm êm, khiến hắn cảm nhận tất cả sự êm ái trìu mến từ nơi ấy truyền vào tâm hồn. Hắn mềm lòng, cảm động tới độ nước mắt trào ra, chảy dọc theo hai cánh mũi xuống miệng, mặn chát. Hắn dụi mắt nói giỡn cho bớt cảm động:

– Bọn trai bạn có vợ rồi chúng xúm vô dọa anh…

– Dọa làm sao?

– Chúng nói, cưới vợ mới có mấy ngày mà bỏ đi liền, không chịu ở nhà làm thêm chân tay cho thằng nhỏ trong bụng, sau sinh ra có tật.

Ðào cũng nói giỡn chọc lại:

– Yên trí đi, ở nhà tôi nhờ thằng khác làm thêm chân tay rồi!

Tỉnh tát yêu vợ, nói, đồ khỉ! Song nó ngạc nhiên thấy cái má đầy thịt của con Ðào ướt nước mắt, hỏi:

– Bữa ni sung sướng quá, vui quá, sao em khóc?

Ðào bối rối, vừa khóc, vừa cười, vừa nói:

– Không biết nữa, đừng hỏi nữa, kỳ lắm…

Nó dừng lại thở khì khì, nước mắt không phải chảy ra ngoài mà còn trào đầy hai hốc mũi hỏi:

– Con đầu lòng, muốn trai hay gái?

Tỉnh:

– Dân làm biển ai cũng ưng con trai. Nhưng con gái đầu lòng lớn lên nó giúp mẹ. Thôi có con gái để khi anh đi biển xa nhà nó giúp em.

Ðột nhiên Tỉnh la lên:

– í! Nó động đậy.

Ðào:

– Nó ‘máy’ đó.

– Bốn tháng biết máy sao?

– ừ, con nầy khôn lắm.

Tỉnh: ‘Sao em biết con gái?’. Ðào thủ thỉ bên tai chồng: ‘Có lần em mơ thấy gánh đôi giỏ xuống sông Cái, chỗ trước cửa chùa Hang gánh cát lên đắp mộ. Thức dậy sợ quá đi hỏi thầy Sáu Ðậu thầy nói, có thai mà chiêm bao thấy sông thì sinh gái. Hỏi chuyện đắp mộ là ý gì, thầy nói, không sao đâu.

Hỏi vì sao? Ông thầy cười ha hả nói:

– Bọn đi biển có chết thì chết mất xác, làm gì có mộ mà đắp? Mà lo?

Ðào nói, ông thầy nói vậy nhưng cứ lo, lại nằm thấy anh về người ướt đẫm. Tỉnh an ủi, chuyện mơ mộng ấy mà, sợ làm chi.

Tỉnh cúi xuống chúm môi lại đặt trên da bụng vợ, hít cái mùi là lạ, rồi úp cả mũi lên cọ qua lại. Ðào la, nhột! Tỉnh nói, cho anh hôn con. Rồi Tỉnh áp cả lỗ tai mình lên bụng vợ. Dừng lại một lúc, nín thở, thì thầm: ‘Kìa tiếng quả tim. Nó kêu tin tin như tiếng cái đồng hồ đeo tay.Tỉnh bắt thử mạch trên cánh tay mình. So sánh hai nhịp mạch, ngẫm nghĩ, sao nó lại nhanh thế này, nhanh gấp đôi, gấp ba. Có lẽ quả tim ấy phải làm việc cật lực để có một cơ thể tráng kiện mà chống chọi với đời… Ðào hỏi:

– Nghe cái gì đó?

– Nó nói chuyện…

– Chuyện chi?

– Lớn lên theo mẹ đi bán cá.

Ðào giục, thôi tắt đèn đi. Tỉnh ừ. Trong bóng tối, Ðào nghe mùi hương lạ, nó hỏi: ‘Ai xức nước hoa đâu thơm quá?’. Tỉnh nói, quên rồi sao? Mùi thơm từ cái gói khi chiều cất dưới gối. Ðào hỏi, thứ đó có bán được không? Thứ này quý lắm, quý như vàng. Ðào hỏi thứ chi? Tỉnh nói:

– Long diên hương.

Ðêm thanh tịnh dịu dàng, hai vợ chồng xa nhau lâu ngày trở về, yên lặng nằm ôm nhau lắng nghe niềm hạnh phúc mong manh từ cái mầm sống mong manh cựa mình. Ðêm ấy một đêm mùa xuân, ngoài kia biển lặng, chỉ có gió thổi nhè nhẹ trên mặt nước không đủ sức đẩy những con sóng vỗ bờ, thế nhưng không hiểu vì sao nằm đây hai đứa vẫn nghe tiếng sóng dập dìu. Chung quanh họ tràn ngập mùi hương. Sáng ra Tỉnh thấy đêm đầu tiên ngủ ở trên đất liền mà bềnh bồng như nằm trên sóng…

Tỉnh về nhà ở với vợ chưa đầy tháng, ra giêng, dù cả hai vợ chồng không muốn nhưng hết tiền lại theo ghe nhà Tạo lên đường. Chuyến ra khơi năm đó gặp cái bão mùa xuân. Nghe tin bão các ghe nhỏ chạy vô bờ lánh. Nhà Tạo tưởng cặp giã cào chống chọi được với sóng không chịu chạy trốn. Bão đầu mùa ác lắm, chỉ mới qua mấy đợt sóng dồi sóng chụp cái nào cái nấy cao như cóc nhà, hai chiếc ghe chìm cùng một lúc. Bọn trai bạn kia bơi lội giỏi lắm, phóng ra tìm ván, thùng bộng với mấy cái can bằng nhựa đựng dầu mà ôm, chịu trận. Chỉ có lão Tạo già yếu với đứa con trai còn nhỏ không tìm được vật gì để bám, bơi một lúc đuối sức Tỉnh cứu được lão Tạo chủ ghe với thằng con trai của lão ta mười tuổi đem theo học nghề biển giã và nấu cơm cho trai bạn ăn. Hắn nhường cho hai cha con một cái thùng phuy rỗng. Còn hắn lặn ngụp trong vùng sóng gió to lớn một lúc, chưa có vẻ gì là đuối cả nhưng không hiểu tại sao lại chìm lỉm. Sáng hôm sau bão tan, tàu hải quân đến vớt được bảy người. Lão Tạo lên tàu phát điên chạy trần truồng trên boong la thất thanh: ‘Biển nuốt thằng Tỉnh rồi!’.

Con Ðào sắp sinh, nghe tin dữ thét lên một tiếng chết giấc. Người ta xúm vào giật tóc mai, xức dầu, cạo gió. Ai cũng sợ nó nổi máu sản hậu. Sau đó nó gượng dậy được nhưng đau yếu liên miên, đầu óc lúc nào cũng nhức nhối, ban ngày thấy ma quỷ, thấy cá dữ, thấy sóng to như cái nhà. Cũng may mỗi lần như thế nó cứ úp mặt xuống gối ngửi mùi hương đựng trong túi ni-lông mới đỡ đau. Ai cũng tưởng chắc cái thai không cứu được. Biển trời tối tăm cả tháng. Rồi ông lụy (Cá voi chết) tấp vô biển Lương Sơn. Bọn xích-lô, xe lam, xe ngựa chở người đi coi nườm nượp . Người ta rủ con Ðào đi coi cho khuây khỏa. Nó đi coi về lại có người nói, đàn bà có chửa đừng tới mấy chỗ đó, nó nhiễm cái hơi vô bụng không tốt.

Ðào sinh đứa con gái đặt tên là Thuyền. Con Thuyền lớn lên, người dong dỏng cao, xinh đẹp lắm. Nhà nghèo làm nghề rổi, bán cá mà nước da phơi bao nhiêu nắng, tắm bao nhiêu nước mặn vẫn trắng hồng trơn láng như thoa mỡ. Mụ Hường, người hàng xóm, một hôm vạch tóc ra bắt chí cho Thuyền thấy trên đỉnh đầu có một cái sẹo tròn, da chung quanh xếp nếp như cái miệng hố nhỏ bằng hạt đậu, nơi đó tóc không mọc được. Mụ hỏi, Thuyền nói, có từ lúc mới sinh. Năm mười tám tuổi Thuyền lấy chồng là dân buôn bán ở chợ. Thuyền theo chồng lên phố ở bỏ luôn nghề biển giả.

Ðêm đầu tiên nằm ngủ với vợ, chồng thấy trong giường ngủ ngát hương. Nửa đêm có tiếng sóng gầm. Sáng dậy lao đao giống như người đi biển.

Bích Du

Ghi Chú :

Long Diên Hương tiếng Anh là : ambergris

Long Diên Hương : theo như bài báo sau đây thì Long Diên Hương khi chưa chế biến thì có mùi rất khó ngửi chứ không thơm như trong truyện :

http://bit.ly/X0xhrQ

Xem thêm trong phần comments

ovv

Sperm whales excrete ambergris through their mouths - Cá Voi  nhả Long Diên Hương từ miệng . Source :news.sky.com

Sperm whales excrete ambergris through their mouths – Cá Voi nhả Long Diên Hương từ miệng .
Source :news.sky.com

1 comments

  1. Long Diên Hương tiếng Anh là : ambergris

    Long Diên Hương : theo như bài báo sau đây thì Long Diên Hương khi chưa chế biến thì có mùu rất khó ngửi chứ không thơm như trong truyện :

    http://bit.ly/X0xhrQ

    Whale Vomit Worth £100,000 Found on Dog Walk

    A man whose dog found a lump of rare and valuable whale sick on a beach is expecting to be able to sell it for more than £100,000.

    Ken Wilman, 50, was out walking on Morecambe beach when his dog Madge started sniffing a lump of rock.

    He told Sky News: “At first I thought it was a football but as I got closer I realised it was a big stone.

    “She wouldn’t leave it alone. I picked it up and it smelt horrible so I knocked it with my walking stick and a small lump came off.

    “I put both pieces back on the beach but something in the back of my mind told me it might be something unusual.

    “I came back home and searched online. I had an inkling it was whale vomit and when I saw pictures I realised it was.

    “When I read how valuable it was I got Madge straight back in the car and drove back to the beach to bring it home.”

    Whale vomit is also known as ambergris and is used to make perfume. It is formed in the digestive system of sperm whales and has a very strong and unpleasant aroma.

    The find could leave Ken more than £100,000 better off
    Whales excrete it through the mouth when it is too large to pass through the digestive system. Perfume makers use it as it has a smell similar to musk.

    Mr Wilman said: “A company in France has offered 5,000 euros (£4,300) per 300g which would make my piece worth 50,000 euros (£43,000) but I’m told companies in Switzerland offer four times that amount.”

    Mr Wilman, who is a single parent and has been unemployed since a motorbike accident in 2007, said when he does sell it he will spend the money taking his 15-year-old son on a trip to Machu Picchu, in Peru.

    He added: “Madge will also be getting a treat for her find by being fed her favourite sausages every day from now on!”

    Thích

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.