Ô NHỤC ẢI NAM QUAN!
Ven trời góc biển buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non
Thượng Tân Thị
Bi thương thay cho lịch sử Việt Nam!
Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết qủa từ công cuộc nhuộm đỏ mạo danh “độc lập, tự do, hạnh phúc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đồng bọn.
Hãy tiếp tục nhìn những gì mà CSVN đang ra sức thực hiện: “Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan không thuộc lãnh thổ Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng. Ô nhục! Từ quan đến quân, CSVN chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thai chưa từng có trong lịch sử nhân loại!
Chấp bút cho đề tài “”, thay vì tranh luận bằng văn chương, tôi sẽ sử dụng giá trị của những tư liệu bằng hình ảnh. Bởi vì, đã có rất nhiều nghiên cứu công phu của các tác giả yêu nước Việt nồng nàn đã là qúa đủ để khẳng định “Ải Nam Quan là của Việt Nam! Ải Nam Quan thuộc về Trung Cộng là do sự hiến dâng của Đảng CSVN!”. Những hình ảnh sẽ lưu lại đây để cho con cháu chúng ta hiểu rõ hơn niềm bi thương của đất nước, chỉ cho các em bọn bán nước hiện đại là ai. Để rồi không còn ngày phải tôn thờ hình Hồ-Mao và màu cờ máu chỉ còn là một kỷ niệm buồn. Rất buồn!
Hãy xác tin rằng: “Nước Việt của em từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau” là mãi mãi!
Chương I
NHỮNG HÌNH ẢNH LỊCH SỬ
Trong chương này, việc sắp đặt hình ảnh về Ải Nam Quan sẽ dựa theo sự thay đổi của lối kiến trúc v.v. mà phân chia thành các nhóm hình theo ký tự A,B,C…Để sự diễn tả rõ ràng hơn, những hình ảnh bên phía Trung Cộng (hoặc Trung Quốc theo thời đại) sẽ gọi là “Trấn Nam Quan” “Mục Nam Quan” v.v…; ngược lại, nhũng hình ảnh bên phía Việt Nam sẽ gọi là Ải Nam Quan hoặc cổng Nam Quan theo đúng tinh thần lịch sử. Phân chia như sau.
– Nhóm A: họa đồ “Trấn Nam Quan” của Trung Quốc (đánh số A1 đến A4)
– Nhóm B: có chung kiến trúc (đánh số B1 đến B4)
– Nhóm C: có chung kiến trúc (đánh số C1 đến C4)
– Nhóm D: có chung kiến trúc (đánh số D1 đến D2)
– Nhóm E: không xác định (E1 đến E3)
– Nhóm F: hình quân sự và bản đồ (đánh số F1 đến F6)
– Nhóm Phụ ảnh: Một số phụ ảnh bất định sẽ đưa trực tiếp vào nơi hình cần thêm minh họa.
Diễn tả
1, Nhóm hình A:
Trước hết, ta có hai bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Trung Quốc). Niên đại của cả hai được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)
A1. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (1)
Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Trung Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung). A2. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (2) Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20 (hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Trung Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Trung Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1). A3. “Trấn Nam Quan Đại Chiến” Minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm 1885. Niên đại của bức họa không rõ nhưng ta thấy tường thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam Quan của hình A2. A4. “Trấn Nam Quan Đại Lâu Đồ” Mô tả cảnh quân Pháp rút quân và binh lực quân Thanh tại Trấn Nam Quan. Hãy quan sát vị trí cổng theo khung hướng dẫn trong hình. |
2, Nhóm hình B:
Bưu thiếp (Carte Postale) phong cảnh Ải Nam Quan do người Pháp thực hiện vào đầu thế kỷ 20. Các nhật ấn sưu tầm được trên bưu thiếp sử dụng từ năm 1908-1912.
B1. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng Đăng
Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Trung Quốc là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa. Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ. B2. Ải Nam Quan nhìn từ hướng Đồng Đăng Ta nhận thấy sự cao thấp của hai phía cổng và cánh phải của tường thành phía Việt nam cũng dừng ở ngang núi theo như họa đồ Trung Quốc (A1). Ở góc phải phía dưới hình là một ụ trắng phủ cỏ xanh, dấu tích lô cốt của quân đội Pháp (tham khảo hình F1 sẽ thấy rõ vị trí lô cốt nhìn từ bên Trung Quốc). B3. Bang giao tại Ải Nam Quan Quan sát các nhân vật trong hình, ta thấy ở cạnh trái có binh lính Việt Nam đứng thành hàng dài. Giữa cổng đi ra là hàng phu khiêng kiệu đội nón vải rộng vành của quân nhà Thanh (chở quan viên?). Ở cạnh phải của hình có những người nhà Thanh đội nón và kết tóc đuôi sam. Có lẽ đang diễn ra một sự kiện nào đó trong lịch sử bang giao tại Ải Nam Quan. B4. Cổng Ải Nam Quan Cổng đóng then gài, cỏ mọc cao ngất ngưỡng. Hoang tạnh. Trong lời nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn “Lạng Sơn”. Xác nhận bờ tường thành chỉ còn dấu thang bậc đi lên để so sánh với tường thành phía bên Trung Quốc (nhóm hình C). |
3, Nhóm hình C
C1. Trấn Nam Quan (1)
Nhìn từ bên Trung Quốc. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi. C2. Trấn Nam Quan (2) Mặt bằng của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam. Ta thấy rõ bên phía Trung Quốc cũng có khoảng cách so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài (ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này). Theo sử liệu Trung Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay. C3. Toàn cảnh Trấn Nam Quan Có một khu trại và hai dãy nhà mái lá cách xa với cổng lớn ở cạnh tâm phải của hình. “Trấn Nam Quan” là đây! Khởi nghĩa Tôn Trung Sơn là đây! Khu di tích này giờ chỉ còn là ruộng nước, gọi là “khu di chỉ Trấn Nam Quan Khởi Nghĩa”. Các khung trong hình dùng để xác định vị trí so với hình C4. C4. Trấn Nam Quan (3) Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn) trong đất Trung Quốc. So sánh các khung vị trí với hình C3: |
4, Nhóm hình D
D1. Cổng Nam Quan (1)
Đây là một kiến trúc khác hẳn so với các nhóm hình trên. Có vẻ sơ sài vì đã mất hẳn phần kiến trúc phía trên trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm 1949. Ta thấy có dáng một nhân vật đang cầm súng. Tiêu đề trên bưu thiếp “NAM QUAN (Tonkin)…” đây là bên phía Việt Nam khi qua cổng nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào lúc này có lẽ kiến trúc cổng nhỏ cũng đã mất). Theo sử liệu Trung Cộng, trong cuộc giao tranh vào năm 1949 thì toàn bộ phần trên cổng đã bị phá hoại hoàn toàn (tham khảo hình E2). D2. Cổng Nam Quan (2) Hình đăng trên tạp chí “National Geographic” do GS Nguyễn Văn Canh đưa lên mạng và không rõ niên đại. Một số bạn nghi ngờ bức ảnh này không chính xác với hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy nhiên so sánh với hình D1, ta đã thấy kiến trúc cùng kiểu của hai hình. Tại đây, dãy tường thành chạy lên cao đến vách núi trắng tương ứng với hình C3-C4, có thể xác định là hình được chụp từ cao điểm bên phía Việt Nam. |
5, Nhóm hình E
E1. Không xác định (1)
Một hình ngôi chùa trên đường đi Long Châu nơi có cổng giao thiệp với Việt Nam là Bình Nhi Quan. Cùng với Nam Quan và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất Việt Nam nên gọi chung là “Tam Quan”, có khi cổng Nam Quan còn gọi là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí quan trọng hàng đầu so với hai cổng Bình Nhi-Thủy Khẩu. Nơi hình này có tiêu đề “Chine – NAM QUAN – Loc Hang Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap” là gì nhưng hình xác định là Nam Quan trên đất Trung Quốc, có phải là một ngôi chùa trong “Trấn Nam Quan” hay không? Hay là thuộc Trấn Bình Nhi Quan? E2. Không xác định (2) Quân đội Trung Cộng đứng trên tường thành giương cờ trong cuộc chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch vào ngày 11.12.1949 tuyên bố giải phóng Quảng Tây. Thế tường thấp với cổng và trên mặt tường cổng có chữ “Trấn Nam Quan”. E3. Không xác định (3) Quân đội Trung Cộng đứng trước cổng nhỏ có khắc chữ “Trấn Nam Quan”. Không rõ niên đại của hình. Chung với hình E2, có lẽ đây là “Trấn Nam Quan” mà tôi đã giải thích (mục 3, nhóm hình C). |
6, Nhóm hình F
F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan
Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả: “…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”. Phụ ảnh F1: Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng) Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940) F2. Cột Mốc Số 18 Do quân đội Nhật Bản chụp tháng 7 năm 1940 ngay tại tường thành Trấn Nam Quan. Cột mốc số 18 lịch sử xác định biên giới Trung-Việt vào năm 1887. Xác định lãnh thổ bảo hộ của thực dân Pháp tại Đông Dương và cũng là khởi điểm Nam tiến của quân đội Thiên Hoàng giao tranh với các nước Châu Âu. F3. Bản đồ vị trí Trấn Nam Quan và cột mốc số 18 Do chính quyền Tưởng Giới Thạch họa vào năm Dân Quốc 13 (1925). Khu vực Trấn Nam Quan và cột mốc số 18 (có đóng khung) F4. Hữu Nghị Quan Đây là một bằng chứng sống động nhất cho kết qủa “bác cháu ta cùng giữ nước” trong thời cộng sản cầm quyền tại Việt Nam. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp vào năm 2005. Các vạch và khung đánh dẩu trên ảnh là của tác giả ảnh và được giải thích như sau.
Núi Kim Kê là cao điểm chiến lược nằm ở cánh trái cổng Nam Quan, ngay vị trí chụp ảnh của tên cựu chiến binh này chính là đất Việt Nam. Khu vực tam giác trong hình chính là khu vực của cột cây số Km0 của Việt Nam là nơi mà vào đầu tháng 7.2007, phía Trung Cộng đã tuyên bố hoàn tất gỡ bỏ tấm đạn địa lôi (mìn) cuối cùng, bảo đảm thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Hòa bình vạn tuế!”. Trong các hình ảnh của chương tiếp theo ta sẽ rõ hơn về vị trí này. Ở đây ta đã có khái niệm về việc Ải Nam Quan đã mất trong cự ly ra sao! Việc mất lãnh thổ qủa là nghiêm trọng! không phải là 100m, 150m, hoặc 200m. Cự ly trong hình có thể tính bằng Km! Hai lỗ đen gần giữa tâm hình là đường ra vào của cao tốc Nam-Hữu (Nam Ninh-Hữu Nghị Quan với chiều dài 179.2 Km. Nam Hữu khởi công vào ngày 28.04.2003 và chính thức khai thông vào ngày 28.12.2005, cũng là đường quốc lộ số 322 của Trung Cộng với điểm tận cùng giáp với Km0 của QL1 Việt Nam. Một âm mưu mới hơn đang hình thành!). Như ta thấy, cả một vùng đồi núi của Việt Nam đã bị Trung Cộng ngang nhiên san bằng và xây dựng công trình trong nhiều năm, vẫn không hề có một chút phản ứng nào của bọn cầm quyền CSVN. Hay nói đúng hơn là đã có một sự thỏa thuận nhượng Ải Nam Quan từ hàng chục năm trước? F5. Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hữu Nghị Quan Khu vực Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên giới Trung-việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan đã nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí Minh! |
Chương II
KẺ BÁN ẢI NAM QUAN VÀ KM ZÉRO Ô NHỤC!
Kẻ bán Ải Nam Quan là ai?
Kẻ bán Ải Nam Quan và bán luôn cả cơ đồ dân tộc Việt Nam cho Trung Cộng chính là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Máu bán nước ăn sâu vào từng đời của bọn lãnh đạo CSVN. Để chứng minh rõ ràng những tội lỗi của bọn bán nước buôn dân này vẫn còn những hình ảnh làm tang chứng. Hãy tiếp tục xem…
– Giai đoạn 1938-1945, Hồ Chí Minh hoạt động “cách mạng” tại Quảng Tây.
– Năm 1945 thực hiện cướp chính quyền tại Việt Nam.
– Năm 1950 tiếp tục sang Trung Cộng mưu cầu viện trợ vũ khí lương thực kháng Pháp.
Hình G1. HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950 HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950. HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình.
Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên. Hình G2. HCM bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những năm 1950 |
– Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”.
– Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh.
– Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.
Hình G3. Phạm Văn Đồng ra mắt Chu Ân Lai
– Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.
Hình G4. HCM và CÂL yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06/1955
– Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.
– CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, Trung-Việt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân , Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ.
– Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt.
– Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam.
Hình G5. Cây si do PVĐ trồng (???)
Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN Hình G6. Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC |
– Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.
Hình G8. Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc “hội đàm” giữa CÂL và HCM – Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn. Hình G10. Hữu Nghị Quan năm 1965. Biểu ngữ của TC và hình Mao Trạch Đông phơi vào phần lãnh thổ VN Hình G12. Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan
Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm nhiệm vụ và Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN Hình G13. Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN
Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: “Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!”. Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC) Hình G14. Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN Hình G15. Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN Hình G16. Huy chương “Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ” do chính HCM ký tặng hoặc do PVĐ ban thưởng.
http://www.youtube.com/watch?v=ywZrFnoRg0g “Nam man! Ta cho ngươi cơm ăn, áo mặc, ta cho ngươi súng đạn, nhưng chính ngươi đã lấy súng đạn bắn vào da thịt ta!” (người anh em đồng chí TC nói!) Hình G19. Hoa Kiều tại Việt Nam bị cưỡng chế hồi hương năm 1978. |
– Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.
Hình G20. Dấu đạn giao tranh Trung-Việt trên khắp tường thành “Hữu Nghị Quan” Hình G22. Trao trả tù binh |
– Ngày 28.05.1980, Trung-Việt tiến hành trao trả tù binh tại “Km0” trên đường Đồng Đăng dẫn vào khu vực Hữu Nghị Quan
Hình G23. Phụ ảnh tham khảo “Cột Mốc Số 18” giả mạo (?) Đây là “Cột Mốc Số 18” mà TC cho rằng đã đặt tại cổng Nam Quan. Khác với “Cột Mốc Số 18” theo Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I). Trên cột mốc này khắc rằng: “BORNE.18 ANNAM-CHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam”. Lịch sử nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch? Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53 tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ? Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ trương một cách mù quáng: “Không công nhận bất cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay mặt VN ký kết với quốc gia khác!” Năm 1979, hai tên Trung Cộng đang chỉ vào vị trí cột mốc “Km0”. Cỏ cây rậm rì, một gốc cây nhỏ phía sau (cây si từ năm 1960?). Phải chăng vị trí cột mốc chẳng phải bị di dời đi hàng trăm thước nào cả. Nó đã nằm đó từ những năm 1960, như một thỏa thuận “hữu nghị” khi HCM dành trọn Ải Nam Quan để tiếp nhận vũ khí của TC gây máu lửa trên miền Nam Việt. Hình G25. “Km0” trong những năm 1990. Biên phòng VN đứng gác nhưng quay mặt về phía VN. Đáng nể! Hình G26. “Km0” “Km0” trong những năm đầu 2000, khi đang xây dựng lại cảnh quan “Hữu Nghị” và kế hoạch cao tốc Nam-Hữu . Lúc này trên cột còn ghi “Hữu Nghị Quan” và “cây si PVĐ” còn đó Hình G27. “Km0” mất chữ Quan “Cây si PVĐ” bị đốn bỏ dã man vào năm 2005. Cột mốc cũng chỉ còn chữ “Hữu Nghị”. Đảng CSVN không dám nhận thêm chữ “Quan”. Xóa bỏ vĩnh viễn lịch sử để làm vừa lòng đàn anh TC! “Km0” của VN trơ trọi so sánh với bia đá “Nam Cương Quốc Môn” của Trung Cộng phía sau . Ở vị trí này ta không còn thấy cổng Nam Quan!
Nhìn sang bên phải để thấy rõ hơn cổng đường hầm cao tốc Nam-Hữu và Cổng kiểm soát của Hải quan TC. Ngang với “Km0” là giao điểm Quốc lộ 322 (điểm cuối) của TC và Quốc lộ 1A (điểm khởi đầu) của VN! Nhìn sang VN. Đi thêm khoảng 100m nữa mới tới Cổng kiểm soát của Hải quan VN. Khoảng cách “thủ lễ” đã xuống dưới chân Ải Nam Quan trong thời cộng sản. Không còn nằm trước mặt cổng Nam Quan như ngày xa xưa. Đúng vậy! Ải Nam Quan nào là của VN? Bọn Ô nhục! Hình G33. Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế! Ngày 18.10.2005, Việt cộng TT Nguyễn Tấn Dũng ra đón khách Trung Cộng ngay tại Km0. Ôi, tư cách của một TT? Hai tay xun xoe chào đón quan thầy Trung Cộng. Không ai trong đám cộng sản thời đại này còn “bản lĩnh” đi qua lại Cổng Nam Quan để đón khách như Hồ Chí Minh của những năm 1950. Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế! Hình G34 Ngày 28.12.2005, cao tốc Nam Hữu chính thức khai thông nối vào khởi điểm Quốc lộ 1A của Việt Nam Hình G35 Những người dân quê Đồng Đăng bị bắt đứng ra chụp hình ngay tại giao giới biên cảnh Trung-Việt. Họ đứng trên khởi điểm của QL 1A như làm nhân chứng cho lịch sử bán nước của Đảng CSVN. Những khuôn mặt muộn phiền, ngơ ngác. Hình G36 Hình G37 Khách du lịch Trung Cộng thảnh thơi qua lại, nhàn nhã như ở nhà. Chụp hình ư? Chuyện nhỏ! Đố tên biên phòng VN nào dám làm khó dễ! Hình G38 Hình G39 Đứng hai chân trên biên giới! Hình G40
Hình G42
Hình G43 Cựu chiến binh trong chiến trận biên giới Trung-Việt hành hương Thế hệ nào của Việt Nam sẽ được tường tận sự ô nhục này. Việc đòi hỏi Trung Cộng trả lại vùng đất thiêng của tổ quốc Việt Nam không phải dễ dàng! Sẽ lại đổ máu như hàng trăm năm trước! Hình G44
Tháng 11 năm 2007, kỷ niệm 50 năm thành lập khu tự trị Quảng Tây. Có cả đại biểu VN tham dự, ngồi trên mảnh đất tổ tiên bị ngoại bang xâm chiếm không biết họ nghĩ gi? Hay là họ vẫn cười? |
Phi Khanh hỡi! Người còn ngồi nói những lời xưa?
“Con yêu hỡi chớ xuôi lòng mềm yếu!…”
Chân Mây
tôi là con dân nước vn , đoc xong cái này , tôi cũng cay lắm , nhưng bik làm sao bây h , tôi tức lắm khi bọn TQ coi thường nước VN chúng ta , sao chúng chiếm đất của chúng ta một cách dể dàng đến như vậy , nếu có chiến tranh giữa TQ và VN thì tôi xin hưá sẽ giữ từng tất đất của cha ông mình , dù có fải chết cũng cam , bọn TQ wá coi thường người VN chúng ta , giá như Quân sự VN chúng ta lớn mạnh , thì tội gì kiêng nể bọn nó , hãy tưởng tượng xem , khi VN chúng ta chiếm hết nước TQ và cho cã dân tộc bọn nó diệt vong thì wá tốt , lúc đó vn chúng ta sẽ chỡ thành một cường quốc , lớn mạnh nhất khu vưc châu Á, nếu mà cái ông TT Nguyển Tấn Dũng chịu cải tiến Quân sự VN , thì chúng ta có thể cho bọn nó biết cái giá khi dám chiếm đất của dân việt nam , nhưng đó chỉ là mơ ước , chúng ta trong thời kì khôi phục kinh tế nước nhà , chở vài 3 năm nửa hoặc hơn , khi nào vn chúng ta đã giàu có thực sự , thì đã đến lúc chiến với bọn Tàu khựa …………..(TÔI KÔ CẦN CÁI HÒA BÌNH KHI NÚP GIƯỚI BÓNG KẼ KHÁC ,NHẤT LÀ BỌN TQ , HAY BẤT KÌ CÁC NƯỚC KHÁC TRÊN THẾ GIỚI ) Quyết chiến và làm nước Việt Nam chúng ta trỡ thành cường quốc số một thế giới ………….Sátttttttttttttttttt
ThíchThích
khi biết chuyện này mình rất ân hân vì không học mà chơi .qua câu chuyện về những video về những lính hoàng sa đã hi sinh vì tổ quốc việt nam .truớc khi chết 1 chiến sĩ đã nói hay để máu của ta tô thám là cờ tổ quốc qua các lời nói đó thể hiện lòng yêu nuớc sâu sắc của các chiến sĩ việt nam ta .việt nam ta đã có bao đời xây dựng 1 đời độc lâu dài chưa và Đã bao nhiêu lần chống giặc ngoại xâm và trước những chiến công hiển khách của dân tộc ta việt nam ta .Trước sự mất Đất mà cha ông ta Đã hi sinh anh dũng bao nhiêu lần rồi . Trước sự mất lãnh thỗ lãnh hải của viêt nam ta . TôI sinh khuyên mọi người dân mọi học sinh hay cố gắng học tập và phát triển để cho đất nước ta trở nên mạnh hơn về quân sự mạnh về chính trị mạnh về kinh tế .Để đất nước ta dân giàu nước mạnh hơn .Ngoài lãnh việt nam ta còn bao nhiêu mối đe dọa từ nước ngoài .TÔI viết bài viết từ những cảm xúc chân thật dầy lòng oán hận về trung quốc về sự mất nước mất đất mất biển mất đảo của cha ông ta để lại từ bao thế hệ nay . DÂN TỘC TA PHẢI TỰ HÀO VỀ NHỮNG TIỀN NHÂN ÔNG CHA TA ĐÃ GIỮ NƯỚC VÀ DÂN TÔC TA PHẢI TỰ LÀ NGƯỜI VIÊT NAM . TỰ HÀO VỀ TRẬN HẢI CHIẾN SÔNG BẠCH ĐẰNG DO TIỀN NHÂN NGÔ QUYỀN TA CHỈ HUY TRẬN DÁNH NÀY
ThíchThích
thưa các anh , các chú , các bác , cháu là 1 người con đất Việt , là người sinh ra trong thế hệ đầu 9x , và chính bản thân cháu cũng đã đến ải nam quan rùi , nghịch đủ kiểu rùi , lúc đó cháu mới lớp 8 , đầu óc toàn chơi với học , có biết gì đâu , đến bây h khi đã vào đại học rồi , cháu mới thấy cái cay đắng và nhục nhã của dân tộc mình . Đau đớn vô cùng các bác ạ , đầu năm nay cháu lại lên tân thanh thêm lần nữa , lên đấy chỉ dám đứng nhìn từ xa , chụp ảnh ko đc , bọn Hải quan tàu nó nhìn mình với thái độ khinh miệt mà cháu chỉ muốn giết chúng nó thôi . Tại sao cái chính quyền này lại để mất đi cái chứng tích ngàn năm mà cha ông đã đổ máu xuống , địt mẹ chúng nó , cay đắng quá , nhục nhã quá , tại sao đến cái thế hệ này mà để mất đi cái cửa ải có thể nói là vĩ đại nhất của dân tộc đc , mẹ kiếp , tôi xin thề chỉ cần sống và thở được nếu bọn Tàu khựa nó dám động đến 1 tấc đất , có phải chết tôi cũng sẽ giữ bằng mọi giá , dù có phải chôn thây miền biên ải cũng là 1 niềm tự hào cho dân tộc !
ThíchThích
vì ải Nam Quan có phải của người Việt đâu bạn,nó do chính tay người Hán xây dựng lại từ năm 1885 rồi bạn,vả lại ngay đến cái tên của nó cũng khẳng định ngay cái cánh cổng này ko phải của Việt Nam rồi bạn
ThíchThích
yêu nước thì phải sống sao cho xứng đáng là con dân VN nhé! hi
ThíchThích
vn con la 1 nuoc cong san thi chau tin la se con nhieu dat viet nam bi cuop boi tau cong
ThíchThích
đừng có cười .nếu các pạn là con dân nước vn hãy sống làm sao xứng đáng với tổ quốc. đừng nói suông mà hãy làm thật.tôi k pít pạn có thể làm dc những j lớn lao. nhưng hãy sống làm sao cho mạnh mẽ sống tốt ngay từ cuộc sống của chính mình. bởi vì mỗi người như vậy thì đất nước mới khá lên dc.chỉ than van thì k làm dc j.tàu thâm độc. nó đang đánh vào gốc rễ của ta.ta phải ngay thẳng đánh lại chúng = sự doàn kết của chúng ta.nhung nhac lai PHẢI TỪ CHÍNH KON TIM VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA hay bien suy nghi thanh hanh dong
lam gja dinh chung ta hp hon di manh me hon
lam pan pe chung ta tin tuong hon va co the chien dau vi nhung dieu quan trong
hay lam con tim ta manh me. pjt iu thuong.k vo cam.biet dau tranh = chinh ban than minh
va cuoi cung hay de nhung tc do dua pan toi 1 tinh yeu nuoc manh liet
pan nhe.day la suy nghi cua toi truoc su dau long cua dat nuoc minh
DKM CHINA
nhung kung chửi luôn thằng chó nào chửi bác hồ
ThíchThích
cái Ải Nam Quan nó là của Trung Quốc,do chính người Hán xây dựng lại từ năm 1885,cái ải Nam Quan lúc trước nó là cảnh cổng biên giới giữa Đại Việt và Trung Quốc,đến năm 1883 thì Pháp đã hoàn toàn đô hộ Việt Nam thì 2 năm sau kí kết phân định lại đường biên giới với quân Thanh,vì ải Nam Quan xưa là cổng phân định biên giới cũ giữa 2 vùng nên quân Pháp quyết định phá cái cánh cổng đấy,hay bằng 1 lá cờ in chữ Nôm cắm trên đường biên giới đã đc định lại,cái ải Nam Quan và chúng mày đang nói tới ý thì nó đc xây lại trên lãnh thổ bọn nó cũng cùng năm 1885
ThíchThích