Đường Thiên Lý dưới thời Nguyễn



1. Lịch sử hình thành

Dưới thời Lý Thái Tông (1028 – 1054), đường quan lộ đã được chia ra từng cung, đặt nhà trạm để chạy giấy tờ công văn. Mỗi cung thuộc quyền cai trị hành chính của một giới chức do triều đình bổ nhiệm, nắm quyền cai trị hành chính, có trách nhiệm tu bổ hệ thống quan lộ nằm trong cung của mình. Dọc theo đường quan lộ từ cung này đến cung khác, các nhà trạm được thiết lập để làm nơi vận chuyển văn thư, công hoá của triều đình đến các địa phương trong cả nước. Đây còn là nơi nghỉ chân của các quan lại triều đình trên đường công cán. Các trạm đặt cách nhau khoảng 15 – 20 km, đứng đầu mỗi trạm là một trạm trưởng chỉ huy một số phu trạm chạy công văn, giấy tờ. Công văn được đựng trong ống tre, được chuyển đi bằng chạy bộ, ngựa, thuyền. Trên các đường giao thông chính đều có các nhà trạm và các ụ đất cắm biển gỗ để chỉ phương hướng.

Đến đời Hồ Quý Ly (1400 – 1407) với những cải cách trong công tác quản lý đất nước, trong đó chú ý mở rộng đường cái quan (quan lộ, đường thiên lý), để tiện việc giao thông và liên lạc. Năm 1402, thiên lý cù nối tiếp từ Hoan Châu đến Hoá Châu (Huế).

Sau chiến thắng Trà Bàn của vua Lê Thánh Tông vào năm 1471, đạo thừa tuyên thứ 13 của quốc gia Đại Việt được thành lập – đạo thừa tuyên Quảng Nam. Nhà vua đã cho tổ chức lại hệ thống giao thông liên lạc thông suốt từ Thăng Long cho đến phủ Hoài Nhơn (Bình Định) bằng đường bộ.

2. Thời chúa Nguyễn Năm 1600, khi Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm đất Thuận Quảng, chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, để phục vụ cho chiến tranh, đường sá hai miền được sửa sang, mở rộng. Trước năm 1653, người Chăm đã tổ chức được hệ thống đường mòn cho voi đi suốt cả vùng duyên hải miền Trung. Ngoài ra, hệ thống đường ngang cũng được phát triển để khai thác tài nguyên rừng và biển. Các chúa Nguyễn khi làm chủ được vùng này đã kế thừa mạng đường sẵn có để tạo nên đường thiên lý và phát triển hệ thống đường ngang dài hơn, dày hơn[2] .

Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh cho đắp đường thiên lý, đường đủ rộng để voi, ngựa đi được từ Thăng Long qua Thanh Hoá vào đến đồn Hà Trung, huyện Kỳ Hoa (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) vượt đèo Ngang vào sông Gianh. Năm 1788, Nguyễn Huệ đã đưa quân từ Phú Xuân (Huế) ra đến Ninh Bình. Đoạn đường từ Nghệ An đến Tam Điệp dài 800 km, với 8 vạn quân, 200 voi chiến, nhiều ngựa mà chỉ đi trong 7 ngày, chứng tỏ ngoài tài hành quân thần tốc của Quang Trung, một yếu tố đã góp phần làm nên chiến thắng của quân Tây Sơn là hệ thống đường bộ lúc bấy giờ đã phát triển[3].

2. Thời vua Nguyễn

Tháng 7 năm Tân Dậu (1801), đoạn đường Phú Xuân (Huế) – Đồng Hới (Quảng Bình) được đắp lại. Năm 1809, đắp đường quan ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận[4].

Nhưng con đường thiên lý – huyết mạch kinh tế và hệ thần kinh quản trị quốc gia – chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ nhất là dưới triều Nguyễn. Trên con đường này, cứ cách khoảng 25 – 30 dặm (15 – 20 km) đặt một nhà trạm để canh phòng và vận chuyển văn thư, tài vật từ kinh đô đi khắp nơi và ngược lại. Đầu thế kỷ 19, từ Hà Tiên đến Hà Nội có 97 trạm, năm 1831 đặt thêm 27 trạm, năm sau mở thêm 9 trạm. Tổng cộng 133 trạm vào giữa thế kỷ 19. Từ Huế đến Hà Tiên dài 1.832 km. Từ Huế đến ải Nam Quan (Lạng Sơn) đường dài 848 km. Từ Huế ra Hà Nội khoảng 672 km[5] .

Mỗi trạm có biên chế khoảng 50 người, tổng số phu trạm trong cả nước gồm 6.000 người. Mỗi nhà trạm đều được xây bằng gạch hay bằng tre, nứa, lá, ba gian hai chái theo cùng một kiểu do Bộ Công quy định. Trên cửa ra vào có treo biển sơn son thiếp vàng dài ba thước hai tấc, rộng một thước năm tấc, biển khắc ba chữ tên trạm. Ở sân trạm trồng cột treo cờ vải vàng, hình cuông, dài rộng đều ba thước, tên trạm được viết bằng chữ to. Thời gian quy định cho chạy trạm cho quãng đường Phú Xuân – Hà Nội là 4 – 5 ngày. Nếu rút ngắn thời gian hơn thì được thưởng 5 quan tiền trở lên. Còn nếu chậm phải chịu hình phạt từ 10 roi đến xử tử. Triều đình tạo điều kiện cho phu trạm hoàn thành nhiệm vụ như ưu tiên sang đò, ngựa dẫm phải người khi chạy hoả tốc không phải lỗi… Đến ngày lễ, ngày sinh các hoàng tử, công chúa… các phu trạm đều được ban thưởng[6].

Đến năm 1810 thì: “Đặt thêm lính trạm từ Quảng Bình đến Bình Thuận, mỗi trạm trên 100 tên, tha khỏi đi lính giản, khỏi làm việc quan và tha thuế thân cũng như quan hạng”[7] .

Quản lý và điều hành sự vụ các dịch trạm trên đường thiên lý là chức năng của ty Bưu chính, còn đưa lệnh của triều đình và thu nhận báo cáo của địa phương là nhiệm vụ của ty Thông chính sứ. Hai cơ quan này phải túc trực hoạt động ngày đêm trên hệ thống đường thiên lý để việc quản trị xứ sở về các mặt quốc phòng, hành chính, xã hội, kinh tế, văn hóa luôn được thông suốt và nhịp nhàng.

Năm 1812, De la Bissachere trong “Etat actuel du Tonkin de la Cochinchine et les royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho” xuất bản ở Paris (Hiện trạng Bắc Kỳ, Nam Kỳ, các vương quốc Lào, Campuchia và Lạc Thổ) đã mô tả về con đường này như sau: “… có một con đường lớn nối Phú Xuân và Đông Kinh (Hà Nội). Con đường này đẹp như đường châu Âu… đường tuy không lát gạch đá, nhưng chỗ nào không vững chắc thì người ta đổ gạch, đá vụn và đóng cọc để củng cố; đường làm hơi vồng lên ở giữa để thoát nước ra hai vệ đường. Hai bên đường có rãnh thoát nước và trồng cây…”[8] .

Trên con đường thiên lý có những cây cầu bền chắc mà tên gọi còn tồn tại đến ngày nay như cầu Lim (Ninh Bình). Năm 1826, một số cầu gỗ được chạm trổ, trang trí, lợp ngói, có hàng quán nhỏ bán bên hành lang cầu như ở Sơn Tây, Hà Bắc, Ninh Bình. Đặc sắc là các cầu có mái: cầu Tây Đằng (Quảng Oai, Hà Nội), Gia Hòa (Thạch Thất, Hà Tây), Yên Lợi (Vĩnh Phú)… Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về số lượng các cầu gạch đá ở một số tỉnh: Quảng Ngãi 59 cầu (trong đó có 3 cầu gồm 2 nhịp, 56 cầu 1 nhịp), Phú Yên 29 cầu, Bình Định 20 cầu…[9]

Trước năm 1831, ở 11 trấn thuộc Bắc thành chỉ có một đường cái quan từ kinh đô ra đến ải Nam Quan. Triều đình Huế đã cho đắp thêm nhiều đường to: “Đường lấy mặt đất làm mực. Mặt rộng một trượng, thân rộng 5 trượng 5 thước, giữa cao 2 trượng, hai bên đường đều cao 1 thước”, do đó các trấn có thể nối liền nhau và từ các trấn có thể chạy ngựa trạm đến thẳng kinh đô. Năm 1811, triều đình cấp cho trạm ở kinh và 6 trạm ở Quảng Đức, mỗi trạm 2 ngựa công. Năm 1825 trở đi, các trạm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam… đều được cấp ngựa. Năm 1828, triều đình cấp đồng loạt cho các trạm từ Bắc vào Nam, mỗi trạm thêm 1 ngựa nữa[10].

Các vua triều Nguyễn rất quan tâm đến việc tu bổ con đường huyết mạch của quốc gia này. Năm 1832, vua Minh Mạng dụ cho Bộ Công: “…đường cái quan có nhiều chỗ núi cao, lính trạm leo trèo, nhân dân đi lại, có nhiều khó khăn trở ngại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào có đá lớn ngăn trở, thì đốt cho nát phá bỏ đi, cốt rộng từ 4 – 5 thước trở lên, đủ đi lại được; chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày thành trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây thành bậc, cho được bằng phẳng, rồi ủy cho phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn, cốt được thành công để lợi ích lâu dài”[11].

Từ 4/9 đến 3/10/1804, đường thiên lý trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên, triều Nguyễn cho đặt 6 trạm, nhà trạm lợp ngói, xung quanh xây tường bằng đá. Mỗi trạm đặt 1 cai đội, 1 phó đội. Phu trạm từ Thừa Thiên đến Quảng Bình mỗi trạm 80 người, từ Quảng Nam đến Gia Định mỗi trạm 50 người, từ Nghệ An đến Bắc thành đều 100 người; miễn cho thuế thân và tạp dịch. Thời Minh Mạng đổi đặt chức dịch thừa và dịch mục. Mỗi trạm được cấp 3 ngựa trạm[12].

Việc di chuyển bằng đi bộ trên đường thiên lý ngày xưa hết vất vả, hành trình đi từ Huế vào đến Phú Yên đã mất đến hơn 14 ngày đường: “Đường sá từ trấn Thuận Hóa vào đến Quảng Nam, nhật trình đi bộ từ quán Lồn Voi đến quán Trà nửa ngày. Quán Trà đi tối đến quán Tuần ải. Tuần ải đi đến quán Sảng nửa ngày; quán Sảng đi tối đến quán Thanh Khê. Quán Thanh Khê đi đến quán Cẩm Sa nửa ngày; quán Cẩm Sa đi tối đến dinh Quảng Nam. Dinh Quảng Nam đi đến Hà Lam nửa ngày, lại đi tối đến quán Bà Dầu. Quán Bà Dầu đến quán Thọ Khang nửa ngày, lại đi tối đến quán Ông Bộ, quán Ông Bộ đến quán Bến Ván nửa ngày, lại đi tối đến Trì Bình… Lại đi đến quá chân đèo truông Ninh giáp địa giới phủ Phú Yên, cộng 14 ngày rưỡi”[13].

Từ kinh đô Huế, đi về phía Nam, con đường thiên lý đi qua các trạm Thừa Nông, Thừa Hoá, Thừa Lưu, Thừa Hải thuộc địa phận kinh sư, đến đèo Hải Vân, ranh giới giữa kinh đô Huế và tỉnh Quảng Nam. Bắt đầu từ Hải Vân quan, uốn cong hình cánh cung về hướng tây nam đến trạm Nam Chính – quán trạm cực bắc của tỉnh. Vượt sông Cu Đê, con đường lại tiếp tục đi qua trạm Nam ổ để đến lỵ sở huyện Hoà Vang nằm sát thành Điện Hải, án ngữ tấn Đà Nẵng. Sau khi men theo chân núi Cẩm Lệ, vượt sông Cẩm Lệ, con đường đi đến trạm Nam Giảng. Đường thiên lý chạy ngang mặt tây của tỉnh thành Quảng Nam, qua lỵ sở huyện Duy Xuyên, đến trạm Nam Phúc, sang huyện Lễ Dương. Tiếp tục hành trình về phía Nam, con đường thiên lý đi qua trạm Nam Ngọc, đến huyện lỵ Hà Đông, gần sát trạm Nam Kỳ. Từ đây, vượt nhánh sông Kế Xuyên đến trạm Nam Vân, rồi trạm Ngãi Bình – quán trạm cực bắc của tỉnh Quảng Ngãi. Đường thiên lý đi qua Quảng Nam dài khoảng 170 dặm, 7 trạm, vượt gần 22 sông và nhánh sông. Về đại thể nó được thiết lập trên vùng đồng bằng, ở những nơi địa hình thuận lợi và gần bờ biển[14].

Tỉnh Bình Định, từ phía Bắc vào Nam có các trạm: Bình Đê, An Trung (Hoài Nhơn), Bình Dương, Quán Chùa (Phù Mỹ), An Hành (Phù Cát), Hưng Định (An Nhơn), Bình Thạnh, Phú Thịnh (Quy Nhơn). Ngoài ra, về phía tây có 2 trạm: Phú Phong, Đồng Phó (Tây Sơn)[15].

Đường thiên lý xưa đi dọc tỉnh Khánh Hoà gần trùng với quốc lộ 1A ngày nay. Bắt đầu vượt sông Cái gần cầu Phú Lộc (Diên Khánh), rồi đi theo hướng hương lộ 1, qua 2 xã Diên Phú, Vĩnh Phương và đèo Tam Đãnh nằm ở phía tây nam thôn Lương Sơn (xã Vĩnh Lương, Thành phố Nha Trang). Con đường này lúc bấy giờ chưa đi qua đèo Cả mà đi đường Gia Long, qua trại Quế, phía tây đèo Cả, nối với đường Gia Long phía Phú Yên. Nghĩa quân Tây Sơn sau khi giành được vùng đất này đã bỏ dinh cũ Ninh Hòa và lập dinh mới ở hòn Trại Thuỷ bên bờ sông Kim Bồng (Nha Trang) và mở đường ngựa đi từ hòn Trại Thuỷ, ven bờ hữu ngạn sông Cái (nay là hương lộ 45) lên phía tây để nối với đường thiên lý qua Diên Khánh[16].

Đường thiên lý ven bờ Bình Thuận chia làm 16 trạm, mỗi trạm cách nhau 25-30 dặm, tổng cộng khoảng 300 km, theo đường chim bay chỉ dài 220 km. Các trạm từ phía nam trở ra lần lượt là: Thuận Phương (đặt gần làng Phù My), Thuận Phước (qua thôn Phò Trì đến làng La Gi), Thuận Trình (thôn Tam Tân), Thuận Lâm (thôn Văn Kê, gần mũi Khe Gà), Thuận Lý (nằm giữa vùng Phan Thiết), Thuận Phan (Phố Hài), Thuận Tỉnh (khu vực Rạng – Mũi Né), Thuận Cang, Thuận Đông (thôn Bình Nhơn), Thuận Phủ (cạnh tỉnh thành Bình Thuận, thuộc huyện Hòa Đa), Thuận Võng (thôn Cao Hậu, Tuy Phong), Thuận Hảo (thônVĩnh Hảo); bốn trạm Thuận Lăng, Thuận Trinh, Thuận Mai và Thuận Lai đều đặt trên đất phủ Ninh Thuận. Bắt đầu từ mũi Bà Kéc, nơi có rạch nhỏ phân ranh giữa Nam Kỳ thuộc Pháp với Bình Thuận. Con đường đi trên cồn cát ven biển, bên phải là biển, bên trái toàn đầm lầy, rộng hơn cả là hồ Đang (tên chữ là hồ Đăng), đường đi hoang vắng, khởi đầu với trạm Thuận Phương.

Con đường thiên lý đi qua địa bàn hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận ngày nay. Trạm cuối cùng là Thuận Lai nằm giữa thung lũng, hai bên núi cao thoai thoải, ở thôn Nhơn Sơn. Đi 10 dặm nữa tới xóm Mô Xoài nằm ở phía nam vịnh Cam Ranh, ven theo bờ vịnh qua xóm Trại Cá 1 dặm nữa là hết địa phận Bình Thuận. Bên kia Ba Ngòi thuộc địa bàn tỉnh Khánh Hòa.

Phương tiện đi lại ngoài ngựa, võng, kiệu, cáng dành cho quan lại với một số xe bò, xe trâu chuyên chở hàng hóa, lương thực, còn hầu hết nhân công đi bộ mang vác. Khó khăn chính trên tuyến đường này là chưa bắc được nhiều cầu qua các sông suối nhất là vào mùa mưa lũ[17].

Đường thiên lý từ Sài Gòn – Gia Định ra Huế bắt đầu từ phía bắc cầu Sơn (quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh) đến Bình Giang (bến Bình Đông, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh), ruộng chằm bùn lầy, đường bộ chưa mở, hành khách muốn đi Biên Hòa hay lên Băng Bột đều phải đi đò. Năm 1748, nhân có việc đi Cao Miên, quan điều khiển Nguyễn Phước Doãn mới chăng dây mở thẳng đường này (đường Xô Viết Nghệ Tĩnh nay), gặp ngòi suối thì bắc cầu, chỗ bùn lầy thì xếp, xây đắp đất. Từ cửa Cấn Chỉ thành Bát Quái đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm. Bờ phía bắc là địa giới Biên Hòa, đặt trạm Bình Đồng, đi về phía bắc qua núi Châu Thới đến bến đò Bình Tiên, rồi qua bến Sa Giang (Rạch Cát) theo đường sứ đến Đồng Môn là đến Mô Xoài (Bà Rịa). Trên đường này, chỗ nào gặp sông lớn thì đặt đò, người chèo đò cũng được miễn sưu dịch.

Thiên lý cù chạy thẳng từ Bát Quái ngược ra phía Bắc qua ven núi Châu Thới, tới bến đò Ngựa (chợ Đồn), xuống Long Thành, Bà Rịa… Năm 1808, Lê Văn Chất được triều đình giao sửa sang đường thiên lý từ Quảng Nam đến Biên Hòa, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huỳnh Đức. Đoạn qua trấn Biên Hòa có các trạm: Thuận Biên (ranh giới hai trấn Biên Hòa và Bình Thuận), Xích Lam, Mô Xoài và Nhà Bè. Đến năm 1822, đổi thành 5 trạm: Thuận Biên, Biên Thuận, Biên Long, Biên Phước, Biên Lễ và Biên Lộc. Mỗi trạm có từ 20 – 30 phu trạm chịu trách nhiệm chuyển tiếp sắc chỉ, công văn của triều đình. Lúc bấy giờ, ngựa trạm hỏa tốc từ Huế vào Gia Định mất 4 – 5 ngày đêm[18].

Con đường thiên lý ngày trước cũng chỉ là con đường đất, chạy qua các làng mạc hoang vu, dân cư còn rất thưa thớt, qua những đèo dốc và rừng hoang. Nguyễn Thông lúc bấy giờ giữ chức Hàn lâm viện tu soạn ở Nội các dưới triều Tự Đức, trong một chuyến đi từ Long Thành đến Phước Tuy (Bà Rịa), theo đường thiên lý để ra Bình Thuận đã sáng tác bài Long Thành – Phước Tuy đồ trung hoài cảm, trong đó có đoạn:

Ve kêu tự chốn nào?
Về tối giọng thêm sầu.
Khách đi mệt muốn nghỉ
Vắng vẻ chốn rừng sâu!
Bên đường hổ đói thét,
Mảnh áo giọt sương thâu…

Dù còn khá hoang vắng, hiểm trở, thú dữ và cướp bóc rình rập, nhưng nhiều thương nhân ở miền Trung vẫn thường xuyên đưa hàng hóa vào buôn bán, trao đổi ở Long Điền, Chợ Bến hay Bà Rịa. Một số bô lão ở vùng Long Điền, Phước Lễ cho hay ông cố, ông nội của họ đã từng đi buôn ngựa, buôn bò từ các tỉnh Nam Trung Bộ vào Bà Rịa theo đường thiên lý trước khi có đường ô tô, tàu hỏa[19].

Tổng hợp các tư liệu trên và qua khảo sát thực tế, ta có thể “phục dựng” lại con đường thiên lý từ Gia Định ra phía Bắc qua bản đồ đính kèm dưới đây. Khởi đầu từ cầu Thị Nghè qua Hàng Xanh, cầu Sơn, qua bến đò chỗ cầu Bình Triệu 1 (quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh), đến ngã tư quốc lộ 13 và đường Kha Vạn Cân ở địa phận phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức (trên nền cũ là đường Thuộc địa số 1 thời Pháp), song song với đó là đường sắt xuyên Việt. Băng qua chợ Thủ Đức, lên ngã tư Linh Xuân (ranh giới giữa tỉnh Bình Dương – Thành phố Hồ Chí Minh), đường thiên lý lên tới chợ Đồn, rồi qua sông Đồng Nai vào Thành phố Biên Hòa. Từ Bình Trước (quảng trường Sông Phố), đường thiên lý qua ngã ba Vũng Tàu, đi theo hướng quốc lộ 51 ngày nay, xuống Phước Lộc (huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai), huyện Tân Thàn, thị xã Bà Rịa (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), đến An Điền. Đường thiên lý đi tiếp xuống huyện Long Điền, huyện Đất Đỏ, thị trấn Phước Bửu (huyện Xuyên Mộc), rồi sang địa phận của huyện Hàm Tân (tỉnh Bình Thuận). Từ đây, đường thiên lý chạy dọc ven biển các tỉnh ra đến kinh đô Huế.

Đường thiên lý từ Sài Gòn đi về phía tây do Tổng trấn Lê Văn Duyệt thực hiện theo lệnh của vua Gia Long vào tháng 10 năm ất Hợi (1815). Bắt đầu từ cửa Đoài Nguyệt ở phía tây thành Bát Quái, qua cầu Tham Lương (đường Trường Chinh nay), qua bến đò Thị Sưu, qua đầm Lão Đống, giáp ngã ba đường sứ tới Khê Lăng đến đất Kha Pha (Cao Miên), cho đến sông lớn dài 439 dặm. Chỗ gặp sông ngòi thì bắc cầu, đầm lầy thì đắp đất, gặp rừng thì đốn cây. Mặt đường rộng 6 tầm (12,72 m), đường thông suốt cho người và ngựa. Từ Kha Pha dọc sông xuống phía nam 194 dặm đến đồn Lò Yêm, từ Kha Pha lên phía bắc 49 dặm đến trại Chế Lăng dùng vào việc phòng binh.

Dưới triều Nguyễn, con đường Sứ là huyết mạch giữa Gia Định và Nam Vang (Cao Miên). Các đoàn sứ thần, các đoàn thương nhân qua lại bằng xe trâu, xe bò hoặc ngựa thồ, vận chuyển hàng hóa giữa hai vương quốc. Con đường này đã từng chứng kiến những đoàn quân của triều Nguyễn đến tiếp cứu theo yêu cầu của triều đình Cao Miên để chống lại quân xâm lược Xiêm.

Khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ, trên bản đồ còn ghi rõ tên con đường này. Nó đi qua Trảng Bàng, Suối Cao, Binh Vinh (Bến Vinh?), Bàu Đồn, Truông Mít. Một phần tuyến đường trùng khớp với đường tỉnh 782 (tỉnh lộ 19 cũ) và đường tỉnh 784 (tỉnh lộ 26 cũ). Ngoài ra, còn nhiều đường nhánh ngang nối vào đường thiên lý và mạng giao thông địa phương từ vùng này sang vùng khác. Một số trục đường cắt ngang theo chiều đông tây, ngang qua thị xã Tây Ninh, trục đường tỉnh 781 (tỉnh lộ 13 cũ) qua cửa khẩu Phước Tân, từ thị xã xuống Bến Kéo. Đường thiên lý từ Sài Gòn – Gia Định đi phía nam thì được làm vào đầu trung hưng năm Canh Tuất (1790). Trịnh Hoài Đức chép về con đường này: “Đường cái quan từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa Mỹ đến sông Bình Đồng tới trấn Biên Hòa. Đường cái quan bên phải gặp chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò Chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên trồng câu mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được gia tăng tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam”[20].

Năm 1792, Nguyễn ánh cho đắp đường từ Mỹ Tho qua giồng Kiến Định và bắc cầu Quỳ Tông. Trong năm này, ông đã huy động dân binh đắp đường thiên lý phía nam từ Gia Định dọc theo giồng cát xuống Trấn Định, qua Thủ Đoàn, giồng Cai Yến, giồng Tha La, giồng Kỳ Lân, giồng Cai Lữ, giồng Trà Luộc, giồng Cai Lễ, giồng Thủ Triệu, Cái Thia. Mãi đến năm 1804 mới lập 2 trạm mục đường bộ tại Trấn Định, mỗi trạm đặt một cai đội, một phó cai đội và 50 trạm phu. Hai bên đường thiên lý đặt nhiều quán trạm[21].

Năm 1835, Minh Mạng cho đắp các đường bộ ở các tỉnh Nam Kỳ dùng vào việc quan báo, khắc phục việc đi lại chủ yếu bằng đường thủy trước đây. Từ thành Định Tường còn có thêm 3 tuyến đường quan trọng khác: đường từ bắc thành Gia Định đến Định Tường, dài 10.800 trượng (từ Sài Gòn đi Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công, Chợ Gạo đến Mỹ Tho); đường từ cửa tây thành Định Tường đến địa giới tỉnh Vĩnh Long, dài 6.600 trượng (từ Mỹ Tho cặp sông Tiền đến Cái Thia); đường từ đông nam thành Vĩnh Long đến địa giới Định Tường (từ Vĩnh Long đến bến đò sang Cái Thia).

Đường thiên lý từ cửa tây thành Định Tường đến địa giới tỉnh Gia Định, dài 5.600 trượng (khoảng 95 km). Nay tương ứng với con đường từ Thành phố Mỹ Tho cặp theo kinh Bảo Định, qua Tân Hương, giồng Cai Yến (Khánh Hậu), thị xã Tân An (Long An), thị trấn Thủ Thừa, thị trấn Bến Lức (dọc theo sông Bến Lức về Sài Gòn), Gò Đen, chợ Đệm, Bình Điền, An Lạc, chợ Phú Lâm, đường Hùng Vương, đường Nguyễn Trãi và về đến cửa Tốn Thuận ở góc đường Lý Tự Trọng – Nam Kỳ Khởi Nghĩa.

Từ khi con đường thiên lý từ Bến Nghé được mở về phía đồng bằng sông Cửu Long (1790) thì các chợ như Phú Thọ, Tân Kiểng, Điều Khiển được nối liền với Bình Điền, chợ Phước Tú (Bến Lức), chợ Cai Tài, chợ Thủ Thừa, chợ Vũng Gù bằng tuyến đường bộ, tạo thêm cho những nơi này thế mạnh thứ hai về mặt giao thông sau đường thủy. Con đường thiên lý chạy qua các tụ điểm kinh tế, các lỵ sở hành chính: chợ Phước Tú đồng thời là lỵ sở phủ Tân Bình và huyện Thuận An, chợ Cai Tài là lỵ sở phủ Tân An, chợ Kỳ Son là huyện lỵ huyện Bình Phước, chợ Vũng Gù về sau là phủ lỵ phủ Tân An, trước khi trở thành thị xã.

3. Kết luận

Được hình thành dưới thời nhà Lý và kéo dài cho đến tận thời Nguyễn, đường quan lộ, đường cái quan, đường thiên lý đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong kinh tế cũng như quốc phòng. Nó góp phần to lớn trong công tác quản lý đất nước, do vậy nhà Nguyễn đã đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và phát triển tuyến đường huyết mạch này, con đường “xương sống” của quốc gia. Những kinh nghiệm đó, luôn là bài học lịch sử bổ ích cho chiến lược phát triển giao thông ở tầm vĩ mô ở nước ta trong thời đại mới.

Nguyễn Thanh Lợi[1]

(Trích trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử ViệtNam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, diễn ra tại Thanh Hóa, ngày 18-19/10/2008)

[1] Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh

[2] Nguyễn Văn Khánh, Giang Nam (chủ biên), Địa chí Khánh Hoà, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 293.

[3] Bộ Giao thông Vận tải, Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam, Nxb Giao thông Vận tải, Hà Nội, 1999, tr. 87, 89.

[4] Khuông Việt, Con đường thiên lý, Tạp chí Tri tân (số 171), ngày 21-12-1944, tr. 6.

[5] Nguyễn Đình Đầu, Bước chân mở lối, Báo Tuổi trẻ Xuân 2006, tr. 6.

[6] Nguyễn Văn Khoan, Giao thông liên lạc nước ta trong lịch sử, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 18.

[7] Khuông Việt, Bđd, tr. 7. (Quan hạng là “đi phục dịch cho triều đình”)

[8] Bộ Giao thông Vận tải, Sđd, tr. 63-64.

[9] Bộ Giao thông Vận tải, Sđd, tr. 64-65.

[10] Vũ Tuyến (chủ biên), Lịch sử ngành Bưu điện Việt Nam , tập 1, Bưu điện ViệtNam xuất bản, 1990, tr..34.

[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, tập 9, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1964, tr.191.

[12] Đỗ Bang (chủ biên), Từ điển lịch sử Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2000, tr. 360.

[13] Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn toàn tập (Phủ biên tạp lục), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 117. Năm 1865, đường thiên lý Sài Gòn – Hà Nội đi bằng kiệu mất 2 tháng.

[14] Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Phước Bảo Đàn, Đất Quảng Nam & con đường thiên lý, Tạp chí Xưa và Nay (số 98), 2001, tr. 10-11.

[15] Việt Thanh, Bưu trạm Bình Dương xưa và nay, Nxb Trẻ, 2002, tr. 12-13.

[16] Nguyễn Văn Khánh, GiangNam (chủ biên), Sđd, tr. 293.

[17] Nguyễn Đình Đầu, Mấy vấn đề lịch sử tỉnh Bình Thuận thời Nguyễn Thông (1827-1884). Trong Báo cáo khoa học về Nguyễn Thông, Tài liệu dùng trong hội nghị, 1984, tr. 229-234. Tô Quyền, Trần Ngọc Trác, Phan Minh Hạo (chủ biên), Địa chí Bình Thuận, Sở Văn hóa Thông tin Bình Thuận, 2006, tr. 535-536.

[18] Lâm Hiếu Trung (chủ biên), Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai, 1999, tr. 155-156.

[19] Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (chủ biên), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr. 485.

[20] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2005, tr. 217.

[21] Trần Hoàng Diệu, Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên), Địa chí Tiền Giang, tập 1, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang – Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa ViệtNam, 2005, tr. 644- 645.

1 comments

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.